BẾN BÀU SẤU MỘT THỜI ĐÃ QUA – Tùy bút Trần Duy Đức




                       

            Tương truyền rằng, nơi này xưa kia linh thiêng lắm, dưới chân đồi là bàu nước mênh mông, sâu thăm thẳm, thông ra dòng sông, dựa lưng hòn núi Kỳ Đông,  có tên là rừng Cấm, trông giống hình Khủng Long uốn khúc, nên còn gọi là Thanh Long, một trong những ngọn đồi nhô ra của dãy thổ sơn từ phía bắc huyện Bình Khê (nay là Tây Sơn) sơn mạch chạy quành xuống Tân Nghi, Gò Quánh, Lộc Phú giáp huyện Phù Cát, rồi thẳng vô Thiết Tràng nhấp nhô cao thấp, tạo thành vùng đồi, gò liên hoàn giữa vùng tam giác tây bắc thị xã An Nhơn, tây nam huyện Phù Cát và đông bắc huyện Bình Khê. Đồi núi Kỳ Đông cây cối um tùm, nhiều cây cao to, không ai dám chặt phá, giữa đồi có miếu thờ ông Hổ bên gốc cây thị già hàng trăm năm, xa xưa có cọp ở. Theo dân gian, miếu ông Hổ chính là nơi người dân vùng này cảm kích, tưởng nhớ công đức của Anh hùng Mai Xuân Thưởng nên bí mật lập miếu thờ ông. Dãy đồi Hòn Trại ở phía bắc, Kỳ Đông ở giữa, Hòn Cấm ở phía tây nam, lại có Bàu Sấu ở sát chân phía tây, nhánh bắc phái sông Côn ở phía ở phía nam và rẽ chi tại ngã ba Thị Lựa ở đông bắc bao bọc.


 Trong tập Phong trào Cần Vương ở Bình Định của Tiến sĩ Phan Văn Cảnh mô tả: Do địa thế hiểm yếu, nên cuối năm 1885 nghĩa quân Cần Vương đã chọn Kỳ Đông là một trong những nơi xây dựng căn cứ của lực lượng khởi nghĩa Cần Vương ở phía nam Bình Định, đó là: mật khu Hầm Hô, mật khu Linh Đỗng, căn cứ Nam Trại, quân thứ Hương Sơn, căn cứ Bắc Trại, căn cứ kho lương Hòn Kho thuộc Bình Khê, căn cứ núi Kỳ Đông thuộc An Nhơn... Vào trung tuần tháng 4 năm 1887, đích thân Tướng soái Mai Xuân Thưởng chỉ huy lập thế trận Thủy bối thư hùng, trận quyết chiến đẫm máu kéo dài ba ngày đêm giữa nghĩa quân với lính Nam triều do hai tên gian thần Nguyễn Thân và Trần Bá Lộc chỉ huy, lực lượng hai bên đều tổn thất, nhưng lính Nam triều được viện binh từ Quy Nhơn lên với hỏa lực mạnh, Mai Nguyên soái buộc phải đưa lực lượng nghĩa quân còn lại vượt sông qua Tân Kiều vào mật khu Linh Đỗng ở căn cứ phía nam, chưa được hai tháng sau thì lớp bị bị bắt, lớp hy sinh, đến đợt địch hành quyết cuối cùng vào ngày 13/6/1887, phong trào Cần Vương ở Bình Định kết thúc.

Trận quyết chiến  đẫm máu tại Bàu Sấu máu đỏ loang cả bến sông, xương rơi vùi lấp cả vạt rừng và trên ruộng vườn, gò bãi... Nhân dân cả vùng này lấy ngày 6 tháng 6 năm 1887, nhằm vào rằm tháng Tư, ngày thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn dưới thời vua Đồng Khánh xử chém Mai Nguyên soái cùng 12 tướng lĩnh của ông làm ngày giỗ nghĩa sĩ Cần Vương. Những sĩ phu, trai tráng của quê hương Nhơn Mỹ tham gia tích cực, xả thân vì phong trào Cần Vương còn lưu danh sử sách như Đặng Thành Tích, Trần Bá Tuệ, Nguyễn Đáng... Mặc dù phong trào Cần Vương bị thực dân Pháp dìm trong bể máu, song sự kiện lịch sử bi hùng diễn ra tại nơi này càng sục sôi ý chí căm thù giặc, nung náu lòng yêu nước của người dân nô lệ, và làm cho bến Bàu Sấu cùng núi Kỳ Đông từng mệnh danh là “Thanh Long Ẩm Thủy” càng đậm thêm vẻ linh thiêng, trầm mặc, đánh dấu mốc son trong lịch sử chống thực dân Pháp và tay sai phản quốc của bao sĩ phu yêu nước, cùng lớp lớp thanh niên trai tráng trên quê hương Bình Định chống cường quyền áp bức.

          Những năm 30 của thế kỷ trước, phong trào cách mạng lan rộng khắp nơi, cách Bàu Sấu chưa quá cây số, tháng 10 năm 1936, tại Hòn Chùa Đại An, Nhơn Mỹ nằm trong quần thể Tứ Linh, chi bộ Hồng Lĩnh- tổ chức Đảng đầu tiên của các huyện phía nam tỉnh ra đời. Một năm sau, chi bộ Hồng Lĩnh đã chọn đồi Kỳ Đông tổ chức cuộc mít tinh có trên 500 người dự giữa ban ngày, kỷ niệm cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, chào mừng ngày Quốc tế Lao động và tuyên truyền đường lối cách mạng... Cũng tại bến sông này, năm 1956 diễn ra cuộc đấu tranh đầu tiên trong huyện của hàng trăm người dân Đại Bình, Đại An... chống đấu giá đò Bàu Sấu bất công dưới chế độ Mỹ- Diệm, và chống địa chủ cũ đòi lại ruộng đất mà cách mạng đã cấp cho họ trong 9 năm kháng chiến chống Pháp. Còn biết bao chiến công của quân dân Nhơn Mỹ trong suốt những năm tháng kháng chiến giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước diễn ra quyết liệt ở bến Bàu Sấu và đồi núi Kỳ Đông như lịch sử Đảng bộ địa phương đã ghi.

Sách Nước Non Bình Định của nhà thơ Quách Tấn có đoạn: “Dưới chân Kỳ Đông ở phía tây có một bàu nước rộng chừng ba mẫu rất sâu. Dù nắng hạn bao nhiêu nước cũng không bao giờ cạn. Đó là Bàu Sấu”. Bàu Sấu nước sâu, ngày xưa  có nhiếu cá sấu sinh sống, nên có tên Bàu Sấu và bến sông này cũng mang tên bến Bàu Sấu. Không biết thực hư thế nào, từ thế hệ tôi đã biết thì chẳng còn thấy cá sấu đâu. Sông Côn rẽ nhánh từ đầu làng Hòa Phong, dòng bắc phái chảy xuống, nước trong veo, đến đây thì hợp lưu với dòng nước đục ngầu từ vùng Bàu Bái, Bầu Lùng, Bàu Lác...ở hướng tây bắc của xã chảy vào tạo thành ngã ba sông, sâu nhất trong vùng, một cây tre dựng đứng vẫn chưa tới đáy. Những năm giữa thập niên 50- 60 của thế kỷ trước, nước vẫn còn sâu không thể đứng nhá bắt cá, một nhà cự phú đã bỏ công của kết hai chiếc sõng đò lại thành cái bè lớn nổi giữa bàu rồi đứng bằng rớ, tấm lưới rớ to gấp 4-5 lấn tấm lưới nhá, dùng bốn cây tre to làm gọng, ba bốn người lực lưỡng mới kéo nổi cái rớ, mỗi lần kéo rớ lên cả thúng cá.

Có một điều kỳ lạ, khi hai dòng nước hợp lưu thì không hòa tan mà có ranh giới riêng biệt bên đục bên trong. Phải chăng, do vậy mà bến sông này rất nhiều cá, nhiều vô kể, đủ loại cá nước ngọt trú ngụ sản sinh, nhất là cá lúi. Đầu mùa lụt, nước đục ngầu, cá lúi chửa bụng mang đầy trứng từ trên nguồn xuôi theo con nước, nước lụt tràn đến đâu cá đẻ đến đó, cả ngoài sông, trong đồng, trong bụi bờ... Đến tiết Đông Chí hết lụt, nước trong, từng đàn cá lúi con theo dòng nước đi ngược lên nguồn. Bến đò Bàu Sấu cũng là bến cá, đến mùa cá lúi lên, hàng năm bảy chục sõng chài của ngư dân từ hạ bạn lên An Vinh, An Thái dồn về đây tung chài bắt cá, kín cả ngã ba sông. Bến đò Bầu Sấu hàng ngày khách qua lại ba hướng, nên có đến ba sõng đò: Hòa Phong qua Đại Bình, Đại Bình qua Thiết Tràng, Thiết Tràng qua Hòa Phong, đông nhất là vào những ngày chợ phiên Tân Đức, Sông Cạn... Lũ học trò chúng tôi hai buổi cõng chữ qua sông, đi sớm về muộn, chạy nhảy trên bờ, lặn hụp dưới sông, nên bến sông thêm nhộn nhịp, đông vui. Thêm vào đó, từng đoàn đò dọc (sõng chở) hàng chục chiếc trương bườm chạy trên sông, vận chuyển hàng hóa từ vạn Gò Bồi lên Bình Khê, Vĩnh Thạnh và ngược lại để“măng le gửi xuống, cá chuồn chở lên” dập dìu trên bến dưới thuyền.

Cuối tháng Chạp chỉ còn rải rác mưa phùn lất phất, rồi những tia nắng nhẹ nhảy nhót trên mặt nước, còn sót những đợt gió bấc rài đủ lạnh cắt da, những ngư dân mình trần trùng trục, đen láng, chỉ mỗi quần cộc, đứng trên sõng cắm sào giữa sông, chăm chú nhìn theo chớn cát mà đón  từng đàn cá lúi lên. Khoảng từ sau tám giờ sáng, mặt trời đã trải ánh nắng vàng nhè nhẹ trên sông là cá bắt đầu lên nhiều, từng đàn, từng đàn như tấm chiếu trải. Khi phát hiện đàn cá, nhanh như chớp, từng ngư dân nghiêng người nhưng cái sõng vẫn không nghiêng, chân tiền chân hậu, tay trên tay dưới, vữa đỡ vừa tung tấm chài chụp trùm lên toàn bộ đàn cá, tấm chài kéo lên nặng gấp đôi lúc thả xuống, đàn cá nằm gọn trong lòng sõng, chỉ cần hai lần tung chài như thế là sõng đầy cả tạ cá. Chiếc sõng con nặng lím vành được ngư dân chèo nhẹ vào bờ có người nhà đón sẵn, từng thúng, từng rổ cá tỏa đi vào làng, vào các chợ quê Sông Cạn, Tân Đức, Thiết Trụ... đến phố thị An Thái, Đập Đá, Gỏ Chàm, Gò Găng,... Con cá tươi rói, to nhất cũng chỉ nhỉnh hơn ngón tay cái, sạch sẽ và rất rẻ, cá đong bằng cái bát sành to làm đơn vị bán mua chứ không đếm từng con, cả làng trên, tổng dưới được ăn cá lúi lên kho với dầu phụng thứ thiệt thơm lựng. Đó là chưa nói các loại cá khác, nào là chép vàng lườm to bằng hai tay nắm kho với dưa cải và thịt mỡ, cá lóc nấu canh chua hoặc um bắp chuối, cá rô mề nướng lửa than chảy mỡ kho với mắm cua chua có lá gừng hoặc dằm nước mắm ớt tỏi ăn với cơm lúa mới đồng quê.

Và, cánh đồng phù sa màu mỡ hai bên sông lúa non đã lên xanh mơn mởn, những biền soi bên Bàu Sấu đậu phụng cũng bắt đầu ra hoa, những vạt cải ven hai bờ sông đã trỗ ngồng vàng rực... thời tiết đang bắt đầu chuyển mùa.

*  *  *

Ăn cơm mới nói chuyện cũ, mà chuyện chưa xưa lắm ở bến Bàu Sấu quê tôi, ông lái đò cuối cùng của bến sông này đã gác sào chừng hơn ba thập niên, bà con trong làng gọi là ông Long Cá. Tên thật của ông là Trương Long, chuyên sống bằng nghề sông nước nên dân làng gọi thế, đã gần sang tuổi 90, gia đình ông mấy đời sinh sống bằng nghề chèo đò và chài lưới bên bến Bàu Sấu, ông là người bơi lặn và tay chài lưới nổi tiếng, từng đoạt giải nhất trong các lần tổ chức đua sõng, bơi bộ, bơi  bắt vịt trên sông. Hồi còn trai trẻ, nhà ông ở bên này sông, nhà vợ ở bên kia sông, bà mê ông bơi lặn bắt cá giỏi, thế rồi ông bà bén duyên thành vợ thành chồng. Mà, đâu chỉ có vợ chồng ông lái đò, còn nhiều lắm những đôi uyên ương đã hẹn hò nhau nơi bến sông này và hạnh phúc cũng chớm nở từ đây. Bây giờ nhiều người đã theo ông bà,  có còn cũng đã là lớp người xưa nay hiếm.

Sau Tết Quý Tỵ, tôi về quê thăm bà con trong xóm làng, ghé thăm gia đình cụ Trương Long, gặp lúc ông đang ngồi dưới cây khế già sau nhà, tuổi của nó cũng gần bằng tuổi ông, đăm chiêu dõi nhìn ra bãi cát ở bến sông. Tôi cùng ngồi uống nước với ông trên chiếc chõng tre, ông hớp ngụm nước trà rồi chậm rãi nói: Bến Bàu Sấu là bến xưa, không còn là bến nay, những gì một thời sôi động trên bến dưới thuyền thì bây giờ không còn gì hết... không còn gì hết! Tôi biết ông buồn nên không gợi thêm chuyện nữa.

Như có người để tâm sự, ông chỉ tay ra bến sông và nói tiếp: Dòng bắc phái sông Côn và Bàu Sấu ngày xưa nước sâu là thế, mà vài chục năm nay cát bồi có chỗ gần bằng mặt soi, lội sông khỏi phải xắn quần, ngay Bàu Sấu thì lúa và rau muống đã mọc sát chân đồi Kỳ Đông. Và...và...ông nhìn mông lung đượm buồn, luyến tiếc: Cá đâu còn nhiều nữa mà lưới với chài đánh bắt, con cá còn trong bụng trứng đã bị người ta xung điện xiết máy chết sạch- Ông nói trong ngậm ngùi như than trách.

Thế, bác có còn giữ kỷ vật gì về cuộc đời sống trên sông nước- Tôi chen vào hỏi. Có chứ- Ông lái đò năm xưa chỉ tay lên chiếc sõng chài cùng cây sào và mái dầm gác trên hiên nhà, nhện giăng năm từng bảy lớp, còn chiếc sõng đò thì đã thành tấm mê nan lót dưới giọt nước hiên nhà phía sau, gần gốc khế.

Con đường qua lại bến sông thời ấy vui nhộn, dân cư đông đúc, không những dân lưới chài, dân làm ruộng mà nhiều gia đình giàu có, quan quyền cũng ở bên sông. Cụ Tuần Vũ Nguyễn Hoành- quan đầu tỉnh Phú Yên cũng chọn nơi gần con đường ra bến sông xây dinh thự, thế hệ như tôi đã biết, cuối năm 1965 ngôi nhà của cụ Tuần mới bị bom Mỹ đánh sập. Vậy mà, ngày nay không còn ai qua lại bến sông, đã từ lâu không còn nghe tiếng gọi đò. Chùa Bửu Liên ở phía Đại Bình nhìn xuống đối diện Kỳ Đông chừng nủa cây số cũng bị bom đạn san bằng thành bãi đất hoang. Đồi núi Kỳ Đông xưa kia cây cối um tùm, miếu thờ linh thiêng, nay đã trơ trụi, nham nhở. Chiến tranh và thiên tai, cùng với sự tác động của con người cả tích cực lẫn tiêu cực, đã làm cho bến Bàu Sấu chỉ còn lại trong ký ức của những người  từng sinh ra, lớn lên và gắn bó với dòng sông, bến nước.

Mặc dù ngã ba Bầu Sấu không còn là bến đò, bến cá, nhưng cái tên Bàu Sấu mãi mãi gắn liền cả về không gian, thời gian với đồi núi Kỳ Đông tạo nên“Thanh Long Ẩm Thủy”, nơi đã in đậm dấu son lịch sử từ buổi đầu chống thực dân Pháp xâm lược nước ta. Và khắc ghi bao chiến công của quân và dân quê tôi  trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Thiết nghĩ, nếu được sự quan tâm của các cấp có thẩm quyền xem xét thấu đáo, công nhận di tích lịch sử Bàu Sấu- Kỳ Đông là một trong những căn cứ rất quan trong của nghĩa quân Cần Vương ở Bình Định, thì nơi đây sẽ được bảo tồn, tôn tạo, có tấm bia ghi ơn, có nơi hương khói cho những anh hùng, nghĩa sĩ Cần Vương đã ngã xuống và cả những người dân thường bị giặc giết hại, nhằm giáo dục truyền thống yêu nước cho hậu thế. Nơi đó, giá trị văn hóa- lịch sử của quê hương, đất nước được tôn vinh.

 Tháng 4-2013
T.D.Đ






                                                   
Share on Google Plus

About Unknown

This is a short description in the author block about the author. You edit it by entering text in the "Biographical Info" field in the user admin panel.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét