TỪ TƯƠNG TÁC TỰ NHIÊN ĐẾN TƯƠNG TÁC NHÂN SINH - Tiểu luận của Triệu Từ Truyền

  
Năm rồi Nhà thơ Triệu Từ Truyền đã xuất bản tiểu thuyết luận đề Tương Tác - 320 trang, NXB Hội Nhà Văn - 2013. Theo yều cầu của một số độc giả, muốn hiểu ý niệm tương tác là gì? Hương Quê Nhà xin đăng phần mở đầu của bản thảo triết luận này.

                                          Nhà thơ Triệu Từ Truyền


Con người không ngừng đi tìm những giải pháp cho đời sống. Đời sống của con người từ nguyên thủy đến hiện đại luôn bị những nỗi đau dày vò
Nhiều học thuyết có hệ thống từ hơn 2000 năm qua đưa ra giải pháp, mong xóa bỏ tận gốc đau khổ của hành tinh xanh. Hàng trăm triết gia từ Đông sang Tây, suốt dọc lịch sử nhân loại ra sức trình bày giải pháp. Thầy và học trò của các học thuyết này đã có nhiều thành tựu, song cũng chưa hơn một liều thuốc giảm đau. Căn bệnh của nhân loại chưa trị được tân gốc, và có phải cần đặt ra giết sạch vi trùng và siêu vi không;  như những bậc thầy đưa ra “diệu kế” của mình, học trò thực hiện quyết liệt, thậm chí bằng những kế sách phi nhân  ác độc?
Có bài thơ sau:
tôi đi giữa đêm lạnh lắng từng nhịp bước nẻo đời
vẫn thấy chơi vơi
tôi qua giữa chặng   đường
còn hoài nghi gì nữa...?
đạo lý của con người
biến hóa biết bao đời và thay đổi bấy nhiêu nơi
người ơi, mặt đường nhựa đen quẩn quanh trong thành phố
đi tới đi lui to nhỏ được gì?
lướt tới nữa mấy khi gần chân lý
lời đáp ngàn năm xưa Chúa nghĩ vẫn chưa thành.
 Giữa Đêm Noel- 25/12/1985
     Rõ ràng nỗi thất vọng trước đấng toàn năng cũng là nỗi thất vọng trước những đấng cứu nhân độ thế khác, trong đó có các bậc thầy tư tưởng và  triết gia .
Bài viết này không viết lại lược sử triết học, cũng không phê phán một học thuyết nào vì việc đó có rất nhiều sách đã xuất bản trên toàn cầu. Hơn nữa, học thuyết nào cũng có nhân tố đúng, cũng có đóng góp cho một giai đoạn thực tiễn của lịch sử, nhưng như những nấc thang lên cao dần, học thuyết sau tiệm cận gần thực tại hơn học thuyết trước.
   Tiến trình của triết học cũng là tiến trình của khoa học. Vì vậy, những khám phá toán học, vật lý và sinh học thường là chứng liệu cho tư duy triết học. René Descartes (1596 – 1650 được Phương Tây tôn vinh là người sáng lập triết học hiện đại, ông  áp dụng phương pháp quy nạp của khoa học, trước hết của toán học, vào tư duy triết học. Từ tiểu luận triết học (Essais philosophiques) xuất bản năm 1637. Tác phẩm gồm bốn phần, ba phần đầu nói về hình học; quang học, sao băng và phần 4 quan trong nhất: trình bày về phương pháp (Discours de la méthode)  mới thật sự mổ xẻ  về triết lý.
Có nhiều lộ trình để đi đến triết lý, không nhất thiết cùng lộ trình với René Decartes. Ở phương Đông thông qua tri thức xã hội và lịch sử cũng dẫn đến tư duy triết lý như: Không Tử, Mạnh Tử. (Phương Tây có cùng trường hợp là Aristole; Platon; Socrate). Độc đáo  là  Phật Thích Ca và đệ tử thông qua thiền định, trực cảm tâm linh, một kênh hiểu biết khác, ấy là tâm thức. Tuy nhiên, lộ trình khởi thủy của triết học phương Tây luôn dính liền với tri thức khoa học, vật lý, hình học, thiên văn học. Càng về sau càng dính dáng sâu với khoa học xã hội như xã hội học; kinh tế học; lịch sử; mỹ học… Tóm lại, triết học là bộ khung tư duy của các lãnh vực khoa học và chiều ngược lại triết học cũng cần hấp thu những thành tựu của khoa học tự nhiên lẫn khoa học xã hội, như gốc cây hấp thu dưỡng chất do lá cành quang hợp.
Một thí dụ cho luận điểm trên là triết học của Karl Marx (1818 - 1883) bắt nguồn từ triết học, kinh tế học và xã hội học, cộng với sử dụng nhiều thành tựu của toán học. Trong tác phẩm Biện Chứng Của Tự Nhiên, để chứng minh quy luật phủ định của phủ định, Engel đã dùng ý niệm toán -a x –a = +a (trừ a nhân với trừ a bằng cộng a).
     Tuy nhiên Toán học là chuỗi suy luận từ một định đề ban đầu, cũng chỉ là một hệ thống duy lý, chưa hẳn từ thực tiễn nhân sinh. Song, chính toán học là công cụ cốt lõi để giải quyết nhiều lãnh vực của nhân sinh. Định đề Euclid: “Qua một điểm nằm ngoài một đường thẳng ta vẽ được một và chỉ một đường thẳng song song với đường thẳng đã cho.” Mỗi định đề cũng chỉ đáp ứng cho một mặt của thực tại. Bên cạnh Eucid (330-275 ), còn có hai đề xuất:  qua một điểm nằm ngoài một đường thẳng không kẻ được một đường thẳng song song nào (Riemann 17 tháng 91826 – 20 tháng 71866))  và có thể kẻ vô số những đường thẳng song song với nó (Lobatchevsky (1 tháng 12 năm 1792 – 12 tháng 2 năm 1856). Như vậy là hình học có đến 3 định đề sau hơn 2000 năm  tư duy qua nhiều thế hệ. Phải chăng hình học đã đi đầu cho quan niệm “đa chân lý”; đa thực tại. Mãi đến giữa thế kỷ 20, Vật lý mới có thuyết tương đối mở rộng, và thuyết lượng tử tiếp tục củng cố cho quan niệm đa thực tại. Đồng thời triết học mới ra đời như hiện tượng luận, chủ nghĩa hiện sinh vô thần để chối bỏ định mệnh do thượng đế đặt để, thực chất xã hội cũng đa quyền lực, không chỉ có quyền lực duy nhất của hoàng đế, hoặc đảng của tập đoàn lợi ích nào đó, thậm chí mỗi người là quyền lực của chính mình. Nhà văn Nga Dostoievsky viết: “ Nếu không có thượng đế thì tôi là thượng đế”.

Nhận biết được tương tác nhân sinh để chấm dứt thời kỳ biệt phái, ngông nghênh của vài vị tự cho mình là thiên tài, thẩm  định lại vấn đề cơ bản của triết học, chấm dứt tranh cãi lực nào quyết định thân phận con người.
Trước khi kết luận thẩm định vấn đề cơ bản của triết học, nên tìm hiểu những tương quan sau đây:
I/ Bốn tương tác tự nhiên dẫn đến bốn tương tác nhân sinh:
 Nếu trong vật chất, tương tác mạnh (a) diễn ra trong nhân nguyên tử, do những hạt sứ giả gluon  trói chặt nhân nguyên tử (1), tương ứng diễn ra trong nhân sinh là tương tác bản năng, chính bản năng sinh tồn làm con người hiện hữu, bản năng là nhân tố chính của tập quán, truyền thống, bản sắc văn hóa  của mỗi cộng đồng người.
 Tương ứng với tương tác yếu (b)  tương tác tâm thức, do năng lượng tâm linh vượt qua nhiều vũ trụ khác nhau nên thoạt nhìn không được mạnh như tương tác bản năng, song chúng quyết định tài năng, bản lĩnh, thành tựu của con người tương tự như hạt sứ giả W và Z có vai trò quan trọng trong cấu tạo vũ trụ.
  Hai tương tác nhân sinh:  bản năng và tâm thức ảnh hưởng mạnh mẽ nhất cho từng nhân thân (cá nhân), cũng như tương tác mạnh và tương tác yếu luôn diễn ra trong thế giới vi mô vậy.
Tương tác hấp dẫn (c) (trọng trường) và tương tác điện từ (d) diễn ra trong thế giới vĩ mô, tương ứng như vậy tương tác tri thức  tương tác quyền lực diễn ra trong cộng đồng xã hội loài người.
Tương tác tri thức làm xã hội loài người đứng vững và phát triển khoa học, cũng như tương tác hấp dẫn giữ vật thể trên trái đất không bay vào khoảng không vô định, rộng hơn giữ cho hệ mặt trời bền vững, giữ cho các thiên hà tồn tại trong vũ trụ đang giãn nở.
    Đồng thời, tương tác điện từ  diễn ra khắp nơi, ai cũng có thể biết; thấy; chạm phải được. Tương ứng như vậy, tương tác quyền lực cũng phổ biến trong xã hội, từ lực cầm quyền các cấp (mà người dân thấp cổ bé miệng mọi thời kỳ lịch sử thường ví nó như tai ách; gông xiềng), lực giáo quyền, đến lực người đứng đầu một hội đoàn; kể cả gia đình... đều chi phối mỗi cá thể; đương nhiên tương tác quyền lực cũng có hai mặt cũng như điện có thể thắp sáng và cũng có thể làm chết người trong nháy mắt.
Đến đây thấy rõ bốn tương tác nhân sinh là bốn lực căn bản duy trì cộng đồng và cá thể của xã hội loài người tồn tại và phát triển. Không nên chỉ nhấn mạnh và  khuyếch đại một lực tương tác nhân sinh sẽ dẫn đến sai lầm trong nhận thức và thực tiễn. Trong lịch sử nhân loại có triết gia xem bản năng chi phối mọi hành vi của con người, nghĩa là chỉ nhấn mạnh tương tác bản năng. Ngược lại, có học thuyết chỉ thấy bảo vệ quyền lợi giai cấp, bảo vệ lợi ích kinh tế là động cơ để phát triển (trong đó giành quyền sở hữu tư liệu sản xuất), nghĩa là chỉ biết có tương tác quyền lực mà thôi. Mặt khác, có triết gia chủ trương lịch sử văn minh là do chủng tộc thông minh, với nhiều cá thể siêu nhân điều khiển đám đông, triết gia ấy chỉ thấy có tương tác tri thức. Tương tác tâm thức bị một số người lợi dụng đề cao mê tín, thần quyền bóp méo tương tác tâm thức thành quyền lực của một đấng siêu hình nào đó, phủ nhận vai trò của tương tác khác dẫn đến phủ nhận khoa  học, phủ nhân bản năng tốt của con người.
Thử tưởng tượng trong thế giới vật chất nếu chỉ có một tương tác, mà ba tương tác còn lại vắng mặt, chắc chắn sẽ không có vũ trụ, không có hệ thái dương và dĩ nhiên cũng chẳng có trái đất. Nhờ có đủ bốn tương tác trong tự nhiên mà sinh vật người mơi hình thành và tồn tại. Vì vậy cá nhân và cộng đồng người cũng cần có đủ bốn tương tác nhân sinh mới có thể tồn tại văn minh  được.
Từ bốn tương tác nhân sinh: tương tác tri thức - tương tác quyền lực -  tương tác bản năng – tương tác tâm thức, dẫn đến cần điều chỉnh vấn đề cơ bản của triết học.
II/ Đổi mới các quan niệm triết lý:
1/ Không còn ranh giới rạch ròi giữa vật chất và ý thức, cũng như không có ranh giới giữa sóng và hạt trong vật lý vậy. Nhận thức triết học từ đầu thế kỷ thứ 20 trở về trước chỉ giới hạn trong thế giới ba chiều không gian với một chiều thời gian (mà thực chất cũng chính là một chiều không gian mà thôi). Nên những nhà vật lý quan niệm rằng nhân loại trên trái đất đang sống trong vũ trụ bốn chiều không gian (2), bao hàm khái niệm bên cạnh không gian bốn chiều còn có những đa chiều không gian khác nữa. Bị giới hạn trong bốn chiều không gian nên triết học chỉ biết có vật chất và ý thức, dẫn đến biện chứng pháp duy tâm hoặc duy vật, dẫn đến tầm nhìn duy lý  hạn chế và sai lệch trong nhân sinh. Thành tựu của thuyết tương đối rộng và thuyết lượng tử cũng như những thành quả thực nghiệm về 12 hạt lepton, 6 hạt boson (3) làm thay đổi ý niệm về vật chất và tinh thần, cùng lúc những thành tựu về vật lý vĩ mô, về vũ trụ hướng tới khái niệm năng lượng vô hình của những vũ trụ đa chiều không gian, tạm gọi là năng lương tâm linh. Phải chắng năng lượng tâm linh vừa tham gia vào cấu trúc vũ trụ bốn chiều, vừa kết nối các tương tác tự nhiên, vừa là kênh liên thông giữa các vũ trụ đa chiều?
2/  Vì vậy, nên bổ sung vào quan niệm của Descarte  vấn đề cơ bản của triết học không chỉ liên quan đến hai ý niệm vật chất và tinh thần mà cần bổ sung ý niệm tâm linh, cho nên con người cũng phải có ba thành tố: tâm linh - thân xác – ý thức.
3/ Chính năng lượng tâm linh dẫn đến nội dung mới hơn của biện chứng pháp, biện chứng pháp tâm linh (có thể gọi là biện chứng vô thường) sẽ giúp con người không xung đột vũ trang; không có kẻ thù giữa người và người.( 4 )
4/ Quan niệm về cái tôi hiện hữu nên nói: “tôi tương tác là tôi hiện hữu” để thay thế câu nói của Descarte: “tôi tư duy là tôi hiện hữu” và câu nói của Albert Camus : “tôi nổi dậy là tôi hiện hữu”.
Bốn  điểm kết của bài viết này cũng là bốn vấn đề triết học thiết thực cần đào sâu nghiên cứu đến nơi đến chốn.
Tháng 3/2014
 Triệu Từ Truyền    


Chú thích (1)   Sáu hạt sứ giả (boson)

Tên
Ký hiệu
Phản hạt
Charge (e)
Spin
Khối lượng
(GeV/c2)
Trung gian tương tác của
Sự tồn tại
Γ
Tự nó
0
1
0
Xác nhận
W
W+
−1
1
80,4
Xác nhận
Z
Tự nó
0
1
91,2
Lực tương tác yếu
Xác nhận
G
Tự nó
0
1
0
Xác nhận
H
Tự nó
0
0
125,3
Xác nhận
G
Tự nó
0
2
0
Chưa xác nhận
·           
·         (a) Lực tương tác mạnh ảnh hưởng bởi các hạt quarkphản quark và gluon- (hạt boson truyền tương tác của chúng). Thành phần cơ bản của tương tác mạnh giữ các quark lại với nhau để hình thành các hadron như proton và neutron. Thành phần dư của tương tác mạnh giữ các hadron lại trong hạt nhân của một nguyên tử chống lại lực đẩy rất lớn giữa các proton đó là lực điện từ.
·         (b) Mặt trời sẽ không chiếu sáng nếu không có lực tương tác yếu (b) bởi vì sự chuyển đổi từ proton sang neutron, ở đó deuterium, nguyên tố đồng vị của hidro được tạo ra và tạo ra phản ứng hidro, với nguồn năng lượng giải phóng cực lớn.
·          
·         (c) Tương tác hấp dẫn của Trái Đất tác động lên các vật thể có khối lượng và làm chúng rơi xuống đất. Lực hấp dẫn cũng giúp gắn kết các vật chất để hình thành Trái ĐấtMặt Trời và các thiên thể khác; nếu không có nó các vật thể sẽ không thể liên kết với nhau và cuộc sống như chúng ta biết hiện nay sẽ không thể tồn tại. Lực hấp dẫn cũng là lực giữ Trái Đất và các hành tinh khác ở trên quỹ đạo của chúng quanh Mặt Trời.  
·         (d) Tương Tác điện từ, gần như mọi tương tác giữa các nguyên tử đều có thể quy về lực điện từ giữa proton và electron nằm bên trong. Nó sinh ra tương tác giữa các phân tử, và các lực đẩy và kéo khi tác động cơ học vào các vật, và tương tác giữa các quỹ đạo của electron, điều khiển các phản ứng hoá học.
·         (2) Đa vũ trụ là giả thiết về sự tồn tại song song các vũ trụ (có cả vũ trụ chúng ta đang sống), trong đó bao gồm tất cả mọi thứ tồn tại và có thể tồn tại: không gian, thời gian, vật chất, năng lượng và các định luật vật lý. Thuật ngữ được ra đời vào năm 1895 bởi nhà tâm lí và lí luận học người Mỹ William James. Những vũ trụ cùng tồn tại trong khối đa vũ trụ được gọi là thế giới song song.
Lý thuyết dây: Lý thuyết dây hình thời gian giãn ra tạo nên vũ trụ, bảy chiều khác vẫn cong nhỏ như trước. Vũ trụ chúng ta đang sống là một màng bốn chiều, vốn là biên của một hình cầu năm chiều. Nằm cách ta một khoảng cách vi mô trong chiều thứ năm là một màng khác, được gọi là "màng bóng" (như hình với bóng, nhưng bóng cũng thực như hình). Hai màng hình và bóng chỉ tương tác nhau qua lực hấp dẫn. Khi đó vật chất hay năng lượng tối của màng này chính là vật chất thông thường của màng bên cạnh. Hai màng có thể tự co giãn và va chạm nhau. Đối với chúng ta (đang sống trên một màng), cú va chạm chính là Big Bang
 (3) Nghĩa là Hợp đề luôn luôn mới hơn, tiến bộ hơn và nhất là hoàn toàn hủy diệt xóa bỏ Đề, kể cả Phản đề. Điều này thực tại không diễn ra như vậy. Thực tại là trong âm có dương, trong dương có âm. Thực tại là photon (ánh sáng) vừa hạt vừa sóng; những hạt hạ nguyên tử luôn luôn chuyển hóa giữa hạt và sóng. Phải chăng nên dùng khái niệm biện chứng vô thường cho thực tại nêu trên?
Có thể mượn việc tháp cây để nhận ra biện chứng vô thường. Trong vườn cây cũ (đề) được ghép với giống cây mới tốt hơn (phản đề) sẽ cho kết quả ba loại cây: cây trực sinh (giống hệt như cũ); cây hỗn hợp giữa cũ và mới (hợp đề); cây hoàn toàn mới (phản đề). Nghĩa là Hợp đề không thể hủy diệt hết cái trước đó (cũ), Hợp đề là vô thường của Đề, Đề là vô thường của Phản đề. Trong sinh học và xã hội không thoát khỏi biện chứng vô thường. Nếu có một loài sâu gây hại mùa vụ (đề), dùng hóa chất để trừ khử chúng (phản đề), không phải thế là hết loài sâu đó (hợp đề) mà sẽ có những con sâu kháng thuốc, rồi sinh sản một thế hệ sâu mới khó giết chúng hơn, như vậy ở đây hợp đề vẫn chính là tiền đề có chất lượng cao hơn, biện chứng pháp Hegel phá sản trong trường hợp phổ biến này.
Tư duy lục bát là tư duy biện chứng vô thường; nghĩa là tiền đề gặp phản đề cho ra đa hợp đề:

         Đề (these)—Phản đề (anti these)— Đa hợp đề (multisynthese) 

Hơn nữa đa hợp đề này có cả phản đề và đề xuất hiện trong hệ quả. Như vậy trực cảm tâm linh sẽ chọn ra vài hợp đề có xác suất cao nhất trong nhiều hợp đề đó. Nói cách khác hợp đề là xác suất như trong cơ học lượng tử. ( trích Dòng Chảy Lục Bát của Triệu Từ Truyền - 2009)


THAM KHẢO
I- (vài từ tiếng Anh để tiện tra cứu:
 Subatomic = hạ nguyên tử
interacting particles = hạt tương tác
grain structure = hạt cấu trúc
particle texture = hạt cấu tạo
natural interaction = tương tác tự nhiên
human interaction = tương tác nhân sinh)

II- Triết hc là n lc ca lý trí tìm kiếm nhng nguyên lý ti hu ca thc ti và ca hin hu.
Triết học chào đời trong cái nôi bình minh nhân loại, khi con người ngơ ngác trước lẽ hiện sinh và tự hỏi: Tại sao tôi có trên đời? Tôi sống để làm gì và sau khi chết tôi sẽ đi về đâu? Tại sao lại có sinh, lão, bệnh, tử và vô vàn những xung đột, bất công nẩy sinh trong cuộc sống v.v… Tự vấn về thân phận mong manh của kiếp người luôn là nỗi thao thức khôn nguôi của con người. Triết học tham gia vào lý giải những vấn nạn đó và có tham vọng giải quyết một cách rốt ráo mọi vấn đề.



Share on Google Plus

About Unknown

This is a short description in the author block about the author. You edit it by entering text in the "Biographical Info" field in the user admin panel.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét