Ý nghĩa của Văn chương – trong đó có Thơ ca – đối với cuộc sống con người là không còn phải bàn cãi. Tôi tiện dịp xin trích lại bốn câu thơ sau chỉ như một sự điểm xuyết: “Thơ như màu sắc nhẹ/ Như hương thơm lặng lẽ trong đêm/ Như điệu ru dịu mềm/ Như tay ve vuốt nỗi niềm buồn vui” – nhà thơ Phạm Đức. Điều mà tôi rất quan tâm và mong muốn tiếp cận đó là: Những thành tố nào cấu thành văn chương? Thế nào thì được nhìn nhận là có “nghệ thuật ngôn từ”?
Điều gì làm nên cái hay, cái đẹp, sự hấp dẫn của Thơ? .v.v. Tôi chỉ có thể tập hợp lại một số suy nghĩ, nhận xét, đúc kết – tôi xin tạm gọi là những mảnh ghép – của quí vị tiền bối mà tôi cóp nhặt đây đó (có thể có chỗ chưa được chuẩn xác) với mong muốn phát họa chân dung “nàng” Thơ từ tư cách một độc giả yêu thơ mà thôi!Trước tiên, tôi đồng ý với nhận xét đại ý rằng: Tác phẩm văn học chỉ tồn tại khi “độc giả đọc nó” và (dĩ nhiên) trước đó “nó phải được ai đó viết ra”. Còn tác giả Eliot đưa ra nhận xét như là một tiêu chí tối thiểu để trở thành Thơ ca (bao gồm cả Văn chương nói chung): “Nếu không thể đem lại sự hưởng thụ cho con người, lại cũng không thể ảnh hưởng đến đời sống, thì nó về cơ bản không còn là Thơ ca”. Tôi muốn nêu lại một phát biểu mà tôi vô cùng tâm đắc (tiếc là tôi không nhớ của ai?): “Thơ là một cuộc chuyển đổi giá trị. Chừng nào cuộc chuyển đổi ấy không xảy ra, thì những sự vật vẫn nguyên như trước, và những từ để chỉ sự vật giản đơn vẫn là từ cũ, những dấu hiệu đơn giản đang chờ vào cuộc. Chỉ có người nào có khả năng làm được cái thao tác nhiệm màu về chuyển đổi mới có quyền mang danh hiệu nhà thơ – chính vì vậy mà những nhà thơ đích thực không có nhiều đến thế. Không hề có những sự vật, không hề có những từ nên thơ, cái này nên thơ hơn cái khác. Chỉ có những sự vật này thô hơn hay thanh hơn sự vật kia và những từ này thô hơn hay thanh hơn từ kia, chứ không hề có những sự vật và những từ nên thơ hơn. Chẳng có sự vật nào, chẳng có từ nào tự chúng phát ra mảy may thơ. Tất cả ở trong thao tác của trí tuệ, của trái tim nhà thơ – người thực sự xứng đáng gọi là nhà thơ – tác động lên những sự vật bằng những từ và qua những từ…”.
Tôi cũng nhất trí với nhận xét của tác giả Nguyễn Văn Hạnh rằng “Văn chương là một hợp chất tư tưởng – nghệ thuật – ngôn từ. Nếu chỉ thiếu một cũng không trở thành văn chương;… Văn chương thi ca là tinh thần, tình cảm, triết lý, bản lĩnh, hồn cốt của một dân tộc, một đất nước. Là sự thấu thị minh mẫn của nhân loại, của thời đại, sự chiêm nghiệm về lẽ sống, về hạnh phúc, thân phận của con người. Để có một cuộc sống ngày càng tự do, có ý nghĩa, xứng đáng hơn…”. Bản chất của thơ ca được soi rọi rõ hơn qua nhận định của Phó Giáo sư- Tiến Sĩ Nguyễn Thái Hòa: “Có cái đẹp thuộc đạo đức, có cái đẹp thuộc triết lí, có cái đẹp của trí tuệ…Còn thơ lại thuộc về cái đẹp của nghệ thuật. Xin đừng một lần nhầm lẫn;…Thơ khám phá cái đẹp ngôn từ và tìm cách ổn định nó trong lòng người. Dĩ nhiên, muốn có thơ hay, không chỉ có cái đẹp thuần túy của ngôn từ mà chính là cái đẹp của cuộc sống thiên hình vạn trạng thể hiện bằng nghệ thuật ngôn từ…”. Vâng! Không nghi ngờ gì nữa: “Văn chương là nghệ thuật ngôn từ. Tức là loại hình nghệ thuật dùng ngôn từ làm phương tiện nhận thức và biểu đạt;…Tác phẩm văn chương là một công trình ngôn ngữ, một sáng tạo về ngôn ngữ. Nhưng ngôn ngữ chỉ là một thành tố, một mặt của tổng thể là công trình nghệ thuật;…Là nghệ thuật, văn chương phải thể hiện được cái đẹp, sự hài hòa, sự sống trong cấu trúc của nó, trong nội dung và hình thức, cũng như trong mối quan hệ của nó với cuộc sống và phải hướng con người đến cái đẹp, sự hài hòa, sự sống.” – tác giả Nguyễn Văn Hạnh. Và theo tác giả Nguyễn Thái Hòa thì “một bài thơ dài đẫm nước mắt, thương khóc tràn trề hoặc vui bất tận nhưng chưa chắc đã hay vì không khêu gợi được những cảm hứng về cái đẹp…”.
Như vậy trọng tâm đổ dồn về cái đặc trưng của “nghệ thuật ngôn từ” là thế nào? Câu hỏi thì quá ư đơn giản, nhưng để trả lời câu hỏi thì vô cùng công phu, phức tạp. Rõ rằng “Nghệ thuật, trước hết phải là sự khác thường”. Bởi chí ít thì đó cũng là “sự đối sánh hàm ẩn tương quan giá trị của lời nói hàng ngày của chúng ta, hoặc lời thơ của người khác với những lời thơ của những thi sĩ bậc thầy như Nguyễn Du” – tác giả Nguyễn Thái Hòa (đang đề cập đến “nghệ thuật ngôn từ”). Tác giả Nguyễn Trọng Tạo cũng đã nhận xét: “…Như ta đều biết, thơ được xây dựng bằng một “thứ ngôn ngữ lạ hóa”… đã phát triển ở giai đoạn cao, chứa đựng các đặc tính không thể thiếu, đó là nhạc điệu, truyền cảm, hàm súc và giàu tính biểu tượng”. “Thứ ngôn ngữ lạ hóa” này có được sau khi nó – ngôn từ - “được cấu trúc theo một mô hình nghệ thuật nào đó”, theo cách nói của các nhà Ngôn ngữ học. Và điều này sẽ được khẳng định thêm trong nhận xét của nhà thơ Lê Đạt: “Thơ dùng những từ thông dụng, nhưng chúng đã kinh qua một tổ chức, một cấu trúc, một công nghệ đặc biệt. Nguyên liệu chữ đã được luyện trong một lò luyện kim đan chuyên dùng và đã thay đổi hóa trị. Cũng vẫn những chữ đó, nhưng chúng đã sống một thân phận khác”. Dĩ nhiên cái “lò luyện kim đan chuyên dùng” của những nhà thơ đích thực thường không giống nhau, mỗi người một vẻ. Mà theo Inrasara “Chính sự khác biệt (về phong cách, thi pháp, hệ thẩm mĩ) làm nên giá trị của văn chương”. Còn nói về cái hay, tài nghệ của các nhà thơ, tác giả Nguyễn Đức Mậu có sự đúc kết khá cụ thể “Người thì hay bởi cảm xúc dồi dào phóng khoáng; người thì hay bởi những câu thăng hoa đột biến hoặc những trải nghiệm về cuộc đời, lẽ đời… Có sự hàm súc, dồn nén trong sử dụng ngôn từ… Có cái hay, cái độc đáo trong cách diễn đạt. Có cái nhìn giàu liên tưởng và bút pháp thật giản dị tài tình…”. Tác giả Nguyễn Thái Hòa thì nhận xét “Có cái hay của ý, tứ. Có cái hay của ngôn từ, nhạc điệu và cũng có cái đẹp toàn bích. Nhưng tất cả phải dựa vào chuẩn mực của cuộc sống, trong đó có những chuẩn mực thẩm mĩ”.
Đành rằng “ Người ta ba bảy người ta, trăm người trăm thị hiếu, đặt vào ngàn vạn tâm trạng khác nhau,…Cũng không thể cứ lấy hiệu quả đối với cá nhân làm thước đo nghệ thuật…” – tác giả Nguyễn Thái Hòa. Nhưng nhận xét sau đây của tác giả (xin được không nêu tên) là có căn cứ, tuy tôi vẫn còn một chút thắc mắc: “…Một nguy cơ nữa là thị hiếu độc giả thơ ngày càng ngã dần về nhu cầu giải trí, ngại đọc loại thơ cao siêu bác học mà ưa thích một tinh thần ngộ nghĩnh đùa tếu kiểu dân gian, nên các loại thơ- vè phát triển rầm rộ như nấm sau mưa…”. Ngoài phần đồng ý, tôi thắc mắc ở chỗ liệu có phải độc giả “ngại đọc loại thơ cao siêu bác học”? Bởi thơ “cao siêu bác học” tức vượt tới mức cao quí, học rộng (từ điển), thế thì tuyệt quá còn gì! Chẳng phải nhà bác học Lê Quí Đôn đã nhận xét: “Bản chất của văn chương là tự học vấn mà ra, học vấn có uyên bác thì viết văn mới hay…” đó sao! Cùng với đặc tính của “thứ ngôn ngữ lạ hóa” đã nêu ở trên, thì không lí do gì độc giả lại ngại đọc. Tôi loại khả năng “vì nó quá khó hiểu”, bởi thế thì sao là cao quí được?! Dù nhịp sống của con người hiện nay, đa phần là khá hối hả, rất “nghèo” về mặt thời gian. Nhưng tôi tin rằng với thơ đích thực cao siêu bác học đó có đủ sức cuốn hút người đọc. Bởi tôi đồng ý với nhận xét rằng: “Sự lựa chọn và kết hợp đích đáng vị trí các yếu tố thơ ca đạt đến mức hoàn hảo không thể thay đổi, thêm, bớt được. Đạt đến mức độ đó, tương quan giá trị tạo cho thơ ca một sức hấp dẫn phi thường khó có gì sánh kịp, có khả năng lay động những trái tim khô cứng, lạnh nhạt nhất!”. ( Tuy nhiên tác giả Nguyễn Thái Hòa cũng có nói thêm: “ Với một số người sống chỉ vì tiền, vì danh, dè bỉu thơ, thì thơ lọt được vào tai họ cũng khó như “con lạc đà chui qua lỗ trôn kim” vậy”). Tôi cho rằng trên văn đàn (tôi chỉ nói báo in) hiện nay không có nhiều những sáng tác mang tầm cao siêu bác học, vì thế chưa thể đáp ứng được nhu cầu thưởng thức thơ (thơ đích thực) của công chúng. Bất giác tôi lại nhớ đến nhận xét của tác giả Phan Hồng Giang: “Nghệ thuật, nếu nó quả là chân chính, sẽ sống trong lòng người dân – bao giờ cũng biết tìm đường trở về với người dân như giọt nước dẫu đã ra tới biển cả vẫn theo mây trở về với suối nguồn…”. Bởi tôi qua tìm hiểu ở một số người đọc, đa phần nhận xét rằng: Thơ bây giờ phần nhiều khó đọc và khó hiểu, cái hiểu được (phần nhiều) lại không chứa nhiều cái đắc địa, nét độc đáo như vốn đã từng có, thiếu sự gắn kết, sự hài hòa…Tôi cũng đồng ý như thế! Nhiều lúc bản thân tôi tự trách mình tư duy nông cạn quá, thị hiếu đóng kín quá, đầu óc tụt hậu quá không theo kịp Thơ nữa rồi! Nhưng vì tình cảm dành cho Thơ “sâu thẳm” tôi cố gắng tìm sự an ủi cho mình thông qua sự đúc kết của một số tác giả sau: “Nhiều người tưởng mình viết gì, nói gì người khác cũng đều hiểu được cả. Thật ra hoàn toàn không như thế. Dùng cả đoạn chữ Hán, dùng từng đống danh từ lạ, nói hoặc viết theo cách Tây, mỗi câu dài dằng dặc, thì quần chúng hiểu sao được” – Hồ Chí Minh. Ông Viên Mai xưa kia thì cho rằng thơ phải có phẩm chất: “Ý thâm, từ thiển, tứ khổ, ngôn cam”.(Tạm hiểu: ý sâu nhưng lời dung dị. Cái suy nghĩ dù khổ, đắng nhưng lời nói ra phải ngọt ngào). Nhà thơ Nguyễn Đình Thi thì viết: “…Một bài thơ hay không bao giờ ta đọc qua một lần mà bỏ xuống được. Ta sẽ dừng tay trên trang giấy đáng lẽ lật đi, và đọc lại bài thơ. Tất cả tâm hồn chúng ta đọc, không phải chỉ có trí thức…”. Không bỏ xuống được hẳn vì sự cuốn hút, hấp dẫn chớ nào phải do sự rối rấm hay mờ nhòe... Tôi vẫn hoàn toàn đồng ý với nhận xét của cụ Nguyễn Gia Tế rằng: “Thơ nó không phải thẳng, thơ nó cong. Phải biết bình mới hiểu được cái hay của nó”. Chữ “cong” dùng ở đây là muốn nói đến “cái khó cần thiết của thơ”, nói đến sự tiềm ẩn, sự ảo của thơ nữa – (trích lời). Tuy thế, vấn đề là độ “cong”, độ “khó”, sự “ảo”, cái “tiềm ẩn” và cả sự “khác thường” ở mức độ nào? Vâng! Chỉ là ở mức “cần thiết của thơ” thôi – không cần phải đến mức… “hết sức quái đản”! Bởi vì, như tác giả Nguyễn Trọng Tạo đã nói: “…Nhưng nghệ thuật lại có ký ức của nó. Ngay cả khi anh muốn làm một cuộc bạo động chữ thì cũng không thể cắt đứt với ký ức ngôn ngữ của chính nó. Còn khi anh đã cắt đứt hoàn toàn với ký ức nghệ thuật thì chính anh sẽ rơi vào khoảng chân không, xa rời ký ức của con người, và như vậy thì chỉ tạo ra những tác phẩm hoàn toàn xa lạ với cuộc sống”. Tôi cũng rất tán thành nhận xét của tác giả Nguyễn Thái Hòa rằng “…Những vần thơ bề ngoài hấp dẫn, bí hiểm, “siêu đấy” nhưng bên trong rỗng tuếch, tìm mãi chẳng thấy gì, hiểu gì thì đâu có thể gọi là hay…Trước khi thơ có thể “giằng buộc, xoắn quyện hồn ta” thì từ ngữ, câu đoạn, nhạc và ý phải “giằng buộc, xoắn quyện” một cách chặt chẽ, hoặc ở trên bề mặt của lời, hoặc ở mạch ngầm bề sâu của ý nghĩa cảm xúc,…Tất cả tài năng lựa chọn và kết hợp các yếu tố thơ ca phải hướng vào một cái đích ngắm, một chủ đề trong một đề tài nhất định…”. Hai chữ “Câu đoạn” vừa nêu trên, theo tôi chính là “cành” của “cây Thơ” được nhà thơ Bạch Cư Dị phác họa qua câu nói, đại ý: Tình là gốc của thơ, Lời là lá của thơ, Nhạc là hoa của thơ, Nghĩa là quả của thơ. Vâng! Để có được một tác phẩm thơ đích thực thì các yếu tố thơ ca phải có sự tương quan, tương tác với nhau giống như các thành tố tạo thành cái cây đang sống vậy! Thêm nữa, “Sáng tác lại là một quá trình hướng tới độc giả… Khi chọn viết bằng tiếng Việt, chẳng hạn, tác giả đã giả định rằng người đọc biết tiếng Việt. Chính nhờ dựa trên những giả định như vậy mà tác giả có thể lựa chọn, mặc dù đôi khi tưởng chừng vô thức, những chất liệu và thủ pháp sáng tác khác nhau nhằm đạt đến những hiệu ứng nhất định ở độc giả…Mối quan hệ giữa Tác giả và Độc giả không thể tách rời khỏi thế giới và các cấu trúc xã hội mà trong đó tương tác diễn ra…” – tác giả Ngô Tự Lập.
Với cái tinh thần quá sốt sắng “cách tân” thơ, có không ít những sáng tác hiện nay có vẻ như là một sự đoạn tuyệt với các giai đoạn thơ đã qua. Tôi tâm đắc với quan điểm thơ của nhà thơ Vân Long: “Chúng ta đang bước vào thời đại đối thoại, không chỉ có đúng, sai, còn cần những ý kiến khác;…Mỗi bài thơ hay đều là thành tựu của thời nó ra đời;…Tôi không tin cái hay của giai đoạn sau lại không kế thừa một phần cái hay của giai đoạn trước. Có thể cách mạng, có thể vọt tiến, nhưng vẫn là sự trườn uốn, chứ không gẫy khúc đứt đoạn”. Tôi nghĩ có rất nhiều người luôn trân trọng và ủng hộ cái mới, nhưng phải là cái mới ươm mầm những hạt giống mĩ cảm mới, mang lại những giá trị mới. Và theo nhận xét của nhà thơ Yến Lan: “… Người làm thơ phải lấy truyền thống làm nền tảng. Nhưng đừng nhầm lẫn giữa cái mới và cái lạ. Cái mới là cái phải chắt lọc từ bao nhiêu cái đã có để thay thế. Cái lạ là cái được thấy lần đầu, nhưng thường là lạ ở chỗ này lại nhìn quen ở chỗ khác. Hơn nữa thể hiện cái lạ chưa sành thường làm cho nó thành ra lố bịch, lai căng và méo mó”. Bất giác tôi nhớ đến mấy câu thơ của Bằng Việt và xin mượn dùng riêng cho cái suy nghĩ của tôi lúc này: “Thôi hãy khoan ngậm ngùi/ Những gì chưa dễ có/ Thôi hãy khoan ruồng bỏ/ Những gì chưa dễ qua!.../ Thôi hãy khoan xót xa/ Những gì chưa dễ mất,…/ Thôi hãy khoan vùi dập/ Những gì chưa dễ quên!”. Tôi nhất trí với nhận xét của tác giả Nguyễn Thái Hòa rằng: “Tác phẩm nghệ thuật có giá trị thì không có đáp số cuối cùng, mỗi thời đại sẽ tìm ra lời giải và đáp số cho mình”. Tôi cũng đồng ý với nhận xét đại ý rằng: “Tác phẩm hay là tác phẩm có giá trị nhân sinh và được truyền tải bằng nghệ thuật văn chương đích thực, trong đó nội dung (tư tưởng) thông điệp của văn phẩm là đúng, có giá trị vun trồng cuộc sống của cộng đồng,…”. Nhân nói đến cái “nội dung tư tưởng” của văn phẩm, tôi rất lưu ý một nhận xét: “…Cái sự thật một cách trực diện với đời sống của con người đã được khúc xạ như thế nào trong văn chương? Câu trả lời thật đáng buồn: Có nhiều khi cuộc sống chảy một đằng, văn chương xuôi một ngã, nhà văn lạc đường trong quá trình tìm đến người đọc của mình…” – tác giả Nguyễn Quang Thiều. Và tôi lại liên tưởng đến câu nói của M. Gorki: “Chính nhờ sự hòa hợp nhất trí giữa kinh nghiệm bạn đọc với kinh nghiệm nghệ sĩ mà có được chân lý nghệ thuật, có được sức thuyết phục đặc biệt của nghệ thuật”. Sau cùng, tôi xin mượn hai câu thơ của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu để thay cho lời kết bài viết này: “Trang giấy trắng như triền cát khát/ Thơ là nhành xương rồng ẩm ướt nở hoa kia!” ./.
N.V.K
(Bình Dương)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét